#047 | Xác định khoản lợi đáng ra được hưởng nếu không có vi phạm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện:

Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn – Bên bán) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên mua) về mua bán thiết bị đồng bộ cho Nhà máy thủy điện. Trước việc Bên bán yêu cầu Bên mua trả tiền, Bên mua cho rằng Nguyên đơn vi phạm thời gian giao hàng, lắp đặt chuyển giao công nghệ nên phải bồi thường khoản lợi đáng ra được hưởng. Bị đơn đưa ra một mức cụ thể nhưng chỉ được Hội đồng Trọng tài chấp nhận một phần.

Bài học kinh nghiệm:

Trong vụ việc trên, Bên bán có vi phạm hợp đồng, có gây thiệt hại cho Bên mua và, tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Bên bán đã thừa nhận. Như vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Bên bán đã hội đủ (trên cơ sở Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”).

Vấn đề tiếp theo là Bên bán phải bồi thường cho Bên mua những khoản thiệt hại nào. Theo khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005, “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Với quy định này, khi có vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm được bồi thường “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong thực tế, có không ít khó khăn trong việc xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.

Trong vụ việc nêu trên, Bên mua cho rằng do vi phạm thời gian giao hàng, lắp đặt chuyển giao công nghệ nên Nguyên đơn đã làm phát sinh thiệt hại về doanh thu do chậm khai thác phát điện và phần thiệt hại này được tính toán trên cơ sở từ thời gian phải hoàn tất việc lắp đặt phát điện theo hợp đồng cho đến ngày nhà máy điện phát được điện lên lưới quốc gia. Theo hợp đồng, ngày phải hoàn tất việc lắp đặt phát điện chậm nhất là ngày 30/10/2011, ngày thực tế phát điện lên lưới điện quốc gia là tháng 02/2012 nên thiệt hại phát sinh về thu nhập do hành vi chậm trễ là 04 tháng từ tháng 11/2011 đến tháng 02/2012. Về con số cụ thể, Bị đơn yêu cầu Nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho Bị đơn phần thu nhập từ tiền bán điện trong 04 tháng với số tiền: 9.320.288.976 VND.

Bên mua đã đưa ra một con số rất cụ thể về thiệt hại được bồi thường. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “vì Bị đơn đã không cung cấp được chứng cứ đầy đủ và chính xác để xác định mức độ thiệt hại cụ thể mà Bị đơn phải chịu, do đó, để xem xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bị đơn và trên cơ sở trình bày của Nguyên đơn, Hội đồng Trọng tài nhận thấy trong quá trình tranh luận tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài về mức bồi thường thiệt hại, về cơ bản ý chí của hai bên đã gặp nhau ở mức bồi thường thiệt hại là khoảng 20% trên tổng doanh thu. Doanh thu bán điện của tháng 11/2011 là 2.287.616.640 VND, doanh thu của tháng 12/2011 là 2.493.225.910 VND. Tổng doanh thu bán điện của hai tháng 11/2011 và tháng 12/2011 là 4.780.935.550 VND. Như vậy số tiền bồi thường thiệt hại mà Nguyên đơn phải trả cho Bị đơn sẽ là: 4.780.935.550 VND x 20% = 956.186.510 VND. Nghĩa là, Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị đơn số tiền 956.186.510 VND là thiệt hại do việc giao hàng chậm”.

Như vậy, có khó khăn trong việc xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” và Hội đồng Trọng tài đã đưa ra hướng xác định của mình. Vụ việc cho thấy việc xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” là rất khó, phụ thuộc rất nhiều vào người đánh giá hồ sơ. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung vào việc cung cấp chứng cứ khi vấn đề xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” được đặt ra.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI